Các dạng đề tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)
13:26 - 15/01/2019
Một số dạng đề cho tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" - Tô Hoài
VỢ CHỒNG A PHỦ
(Tô Hoài)
1.Tác giả Tô Hoài
- Tô Hoài (1920 – 2014) tên thật là Nguyễn Sen, quê ở ngoại thành Hà Nội
- Ông là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại
- Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo mãnh liệt của nền văn học Việt Nam. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, tác giả là chủ gần 200 đầu sách.
- Tô Hoài sáng tác nhiều và thành công trên nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, tự truyện…
- Ông có sở trưởng về miêu tả thiên nhiên và phong tục tập quán ở các vùng miền.
- Tô Hoài được mệnh danh là nhà văn của thế giới loài vật, nhà văn của những người ven thành. Đặc biệt khi ra mắt độc giả tập “Truyên Tây Bắc”, Tô Hoài là nhà văn của vùng núi cao Tây Bắc.
2.Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”
Hoàn cảnh sáng tác
- Truyện ngắn “Vợ chồng A phủ” là áng văn xuôi xuất sắc nhất của Tô Hoài trong tập “Truyện Tây Bắc”.
- Tập truyện được nhà văn sáng tác năm 1953.
- Tác phẩm là kết quả những chuyến đi thực tế của Tô Hoài lên vùng rẻo cao Tây Bắc từ năm 1952, trong vòng tám tháng.
- Tập truyện này đã được trao giải nhất giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1954 – 1955.
*Bố cục
- “Vợ chồng A Phủ” gồm có hai phần. Phần đầu viết về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài. Phần sau viết về cuộc sống nên vợ nên chồng, tham gia cách mạng và được đổi đời của Mị và A Phủ khi ở Phiềng Sa.
- Đoạn trích trong sách giáo khoa thuộc phần đầu truyện ngắn
*Nội dung
- Bằng việc kể về hai đoạn đường đời của Mị và A Phủ: đoạn đường đời đẫm máu và nước mắt ở Hồng Ngài, đoạn đời ở Phiềng Sa khi theo cách mạng và kháng chiến, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” đã dựng lên một bức tranh chân thực về cuộc sống tăm tối tủi nhục của người dân Tây Bắc dưới ách bọn chúa đất vùng cao.
- Cũng qua tác phẩm, Tô Hoài đã bày tỏ niềm cảm thương chân thành, sâu sắc đối với những người nông dân miền núi; đứng về phía họ lên án tố cáo những thế lực bạo tàn đã đầy đọa những người lao động đến cuộc sống bi đát. Truyện ngắn còn phát hiện, diễn tả và ca ngợi vẻ đẹp của người lao động vùng cao, đặc biệt là sức sống tiềm tàng của họ. Đồng thời, tác phẩm chỉ ra con đường đi theo cách mạng, đi theo kháng chiến là con đường giải phóng duy nhất của người dân Tây Bắc.
*Nghệ thuật
- Nghệ thuật trần thuật tự nhiên, hấp dẫn. Lối văn kể chuyện của Tô Hoài trong truyện ngắn rất sinh động, gần gũi với đời thường. Tác phẩm cũng thể hiện rõ sở trường miêu tả thiên nhiên và phong tục tập quán của nhà văn.
- Tình huống hấp dẫn: Truyện kể về hai số phận, hai cuộc đời mà không hề rối, rất rõ ràng, hấp dẫn.
- Ngôn ngữ đậm chất Tây Bắc, giàu chất thơ, giàu hình ảnh.
- Chi tiết đặc sắc. Trong đó có những chi tiết giàu tính điện ảnh như chi tiết tiếng sáo, ngọn lửa.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo: Mị và A Phủ được xây dựng với cách thức riêng. A Phủ được thể hiện qua vẻ bề ngoài, chủ yếu qua hành động. Mị được phác họa chủ yêu thông qua thế giới nội tâm phong phú, phức tạp.
*Tô Hoài nhận định về tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”
- “Đất nước và người miền Tây để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, không thể bao giờ quên…Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi.”
- “Nhưng điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến thế, mọi thế lực tội ác cũng không giết được sức sống của con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng, mãnh liệt.”
- “Thân phận Mị, nỗi khổ của Mị không thể là trường hợp cá biệt”
- “Khi viết đoạn này tôi thích lắm. Tôi muốn nhấn mạnh và mô tả tâm hồn Mị…Tiếng sáo là biểu tượng của niềm khát sống, khát khao yêu, ở đây còn là khát khao tự do”
- “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không thể tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc.”
PHẦN BÀI TẬP
ĐỀ 1. PHÂN TÍCH NHÂN VẬT MỊ TRONG TÁC PHẨM “VỢ CHỒNG A PHỦ” CỦA NHÀ VĂN TÔ HOÀI
MỞ BÀI
Cách 1: Đi từ hình tượng người phụ nữ trong văn học>> đến tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”>> đến nhân vật Mị
Cách 2: Đi từ vai trò của nhân vật trung tâm, nhân vật chính trong truyện ngắn>> đến hình tượng Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”
Cách 3: Đi từ đề tài Tây Bắc trong văn học>> đến truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” >> đến nhân vật Mị
Cách 4: Đi từ thành tựu của văn học thời chống Pháp>> đến tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” >> nhân vật Mị.
Ví dụ: Tây Bắc là vùng núi phía Tây của miền Bắc Việt Nam. Cảnh sắc thiên nhiên và con người nơi đây luôn là nguồn cảm hứng sáng tác của các văn nghệ sĩ. Tây Bắc đã trở thành là đề tài tiêu biểu trong văn chương cách mạng. Những tác phẩm tiêu biểu về đề tài Tây Bắc phải kể đến như: “Tây Tiến” (Quang Dũng), “Tiếng hát con tàu” (Chế Lan Viên), “Người lái đò Sông Đà” (Nguyễn Tuân)… Trong mảng sáng tác về Tây Bắc không thể không nhắc đến những sáng tác của nhà văn Tô Hoài. Với Tô Hoài, Tây Bắc là miền nhớ, miền kí ức, miền kỉ niệm: “Đất nước và người miền Tây để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, không thể bao giờ quên…Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi.” Sự am tường về cuộc sống của người lao động miền Tây, mối thiện cảm sâu sắc với người nông dân vùng cao đã giúp Tô Hoài gặt hái được những thành tựu rực rỡ về đề tài miền núi. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập truyện “Tuyện Tây Bắc” nói chung có thể coi là một cách trả nợ những ân tình đối với Tây Bắc của Tô Hoài. Qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” nhà văn không chỉ phản ánh một cách chân thực, sinh động hiện thực cuộc sống đau khổ, tăm tối của người dân vùng cao dưới ách bọn chúa đất mà tác giả còn cho thấy sự đổi đời của họ khi họ đi theo cách mạng và kháng chiến. Tư tưởng chủ đề đó của tác phẩm được nhà văn thể hiện sâu sắc và ấn tượng qua nhân vật Mị.
THÂN BÀI
1.GIỚI THIỆU TÁC GIẢ - TÁC PHẨM
(Tác giả + tác phẩm (hoàn cảnh sáng tác +giá trị nội dung)
- Tô Hoài (1920 – 2014) tên thật là Nguyễn Sen, quê ở ngoại thành Hà Nội. Ông là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo mãnh liệt của nền văn học Việt Nam. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, tác giả là chủ gần 200 đầu sách. Tô Hoài sáng tác nhiều và thành công trên nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, tự truyện…Ông có sở trưởng về miêu tả thiên nhiên và phong tục tập quán ở các vùng miền. Tô Hoài được mệnh danh là nhà văn của thế giới loài vật, nhà văn của những người ven thành. Đặc biệt khi ra mắt độc giả tập “Truyên Tây Bắc”, Tô Hoài là nhà văn của vùng núi cao Tây Bắc.
- Truyện ngắn “Vợ chồng A phủ” là áng văn xuôi xuất sắc nhất của Tô Hoài trong tập “Truyện Tây Bắc”. Tập truyện được nhà văn sáng tác năm 1953. Tác phẩm là kết quả những chuyến đi thực tế của Tô Hoài lên vùng rẻo cao Tây Bắc từ năm 1952, trong vòng tám tháng. Tập truyện này đã được trao giải nhất giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1954 – 1955. Bằng việc kể về hai đoạn đường đời của Mị và A Phủ: đoạn đường đời đẫm máu và nước mắt ở Hồng Ngài, đoạn đời ở Phiềng Sa khi theo cách mạng và kháng chiến, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” đã phác họa một bức tranh chân thực về cuộc sống tăm tối tủi nhục của người dân Tây Bắc dưới ách bọn chúa đất vùng cao. Đồng thời, tác phẩm chỉ ra con đường đi theo cách mạng, đi theo kháng chiến là con đường giải phóng duy nhất của người dân Tây Bắc. Cũng qua tác phẩm, Tô Hoài đã bày tỏ niềm cảm thương chân thành, sâu sắc đối với những người nông dân miền núi; đứng về phía họ lên án tố cáo những thế lực bạo tàn đã đầy đọa những người lao động đến cuộc sống bi đát. Truyện ngắn còn phát hiện, diễn tả và ca ngợi vẻ đẹp của người lao động vùng cao, đặc biệt là sức sống tiềm tàng của họ.
2.PHÂN TÍCH NHÂN VẬT MỊ
- GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ NHÂN VẬT
(khái quát về vị trí, vai trò của nhân vật bằng đoạn văn 5 >7 dòng)
+ Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Nhân vật này xuất hiện xuyên suốt tác phẩm. Mị tham gia vào hầu hết những sự kiện, biến cố của truyện ngắn.
+Mị điển hình cho số phận khổ đau và phẩm chất tốt đẹp của những người phụ nữ Tây Bắc nói riêng, người dân Tây Bắc nói chung
+Qua nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài đã thể hiện sâu sắc giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm
- PHÂN TÍCH CỤ THỂ
LUẬN ĐIỂM 1: Trước hết, Mị là cô gái chịu nhiều bất hạnh, thua thiệt. Số phận bất hạnh, thua thiệt đó được thể hiện cả trước và sau khi Mị về làm dâu trừ nợ ở nhà Pá Tra.
- Trước khi sống trong thân phận làm dâu trừ nợ ở nhà Pá Tra, Mị cũng chịu nhiều thua thiệt. Mị sinh ra trong một gia đình nghèo ở miền núi. Bố mẹ Mị không có tiền cưới phải vay tiền bố của thống lý Pá Tra. Nhưng vì lãi cao quá mà cả đời họ đã vắt kiệt sức lao động trên những nương ngô nương khoai mà không trả nổi. Đến khi mẹ Mị mất món nợ đó vẫn còn. Rõ ràng, gia đình Mị là nạn nhân của nghèo đói, của thủ đoạn cho vay lãi với giá cắt cổ. Mị bị thống lý Pá Tra bắt về làm con dâu gạt nợ.
- Sống trong kiếp làm dâu trừ nợ ở nhà Pá Trá, cuộc đời Mị đầy những đắng cay, tủi cực. Ở Tây Bắc ngày xưa có không ít phụ nữ phải sống trong kiếp làm dâu trừ nợ. Mị là một trong những số phận đau khổ ấy. Cô vốn là một thiếu nữ xinh đẹp, tài hoa, yêu lao động, yêu tự do, hiếu thảo. Với những phẩm chất của người phụ nữ Tây Bắc lí tưởng, Mị xứng đáng được hưởng hạnh phúc và có khả năng đem lại hạnh phúc cho người khác. Thế nhưng trong một xã hội tàn bạo, bất công, càng xinh đẹp, tài hoa thì người phụ nữ càng phải chịu những bất hạnh, tủi nhục, ê chề. Điều đau xót chính là ở đó. Mị đã bị thống lí Bá Tra bắt về làm con dâu trừ nợ - món nợ của cha mẹ Mị trong ngày cưới mà cả đời làm lụng vất vả họ đã không sao trả nổi. Tiếng là con dâu nhà thống lí nhưng kì thực Mị chỉ là một đứa ở không công, một người tù chung thân mà thôi.
+ Mị đã bị bóc lột tối đa sức lao động. Về làm dâu nhà thống lý Pá Tra, Mị phải làm rất nhiều việc. Hết lên nương bẻ bắp, lại xe đay, hái củi, thái cỏ ngựa… Dù đi đâu làm gì, cô cũng phải gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi… Có thể nói rằng cả một núi công việc nhà thống lý đã đè lên đôi vai của Mị. Thời gian Mị phải làm việc thì triền miên, đằng đẵng. Quanh năm suốt tháng, cô phải làm việc không ngơi tay. Mùa nào việc nấy, cô vùi đầu vào công việc. Ngày cũng như đêm, cô không biết đến nghỉ ngơi. Thân phận của cô ở nhà thống lí còn tủi nhục hơn con trâu, con ngựa. Bởi con trâu, con ngựa còn có lúc nghỉ ngơi để nhai cỏ, gãi chân, còn con người như Mị chẳng biết thế nào là nghỉ ngơi.
+ Đã thế Mị còn bị hành hạ, chà đạp, lăng nhục về nhân phẩm thậm tệ. Chưa bao giờ A Sử coi Mị là người. A Sử chỉ coi Mị là một món đồ chơi và hắn có thể đánh, trói Mị bất cứ lúc nào tùy thích. Có những đêm mùa đông lạnh giá không sao ngủ được, Mị thường thức hơ tay sưởi lửa. A Sử đi chơi về thấy thế ngứa tay đánh Mị ngã xuống bên bếp. Mùa xuân đến Mị muốn đi chơi, hắn đã trói Mị vào cột nhà bằng cả một thúng dây đay. Khi hắn bị A Phủ đánh, Mị đã thức suốt đêm xoa thuốc dấu cho hắn. Mệt quá có lúc cô thiếp đi liền bị A Sử đạp chân vào mặt.
+ Chưa hết Mị còn bị cầm tù về mặt tinh thần. Ngay khi bắt Mị về làm con dâu gạt nợ, thống lí Pá Tra đã cúng trình ma để ma nhận mặt con nợ. Thống lí Pá Tra đã lợi dụng sự mê tín của người dân miền núi để trói buộc họ vào kiếp nô lệ cho gia đình mình. Từ đó trở đi, Mị lúc nào cũng bị cái ma của nhà thống lí ám ảnh. Mị bị đầu độc bởi thần quyền. Sức mạnh của thần quyền thật đáng sợ. Nó trói buộc con người trong vô thức, làm cho họ tê liệt về ý thức, không biết phản kháng. Mị nghĩ rằng mình đã bị đem về cúng trình ma ở nhà thống lí thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ra ở đây thôi. Kể từ khi vứt nắm lá ngón, Mị chưa bao giờ nghĩ đến chuyện chạy trốn hay thay đổi cuộc đời mình. Sống trong nhà Pá Tra, Mị đã sống trong thân phận của một tù nhân. Chẳng phải ngẫu nhiên mà nhà văn lại chú ý đến căn buồng của Mị. Căn buồng kín mít, giao tiếp với thể giới bên ngoài chỉ bằng cái ô cửa bé bằng bàn tay. Từ ô cửa đó Mị trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trắng trắng không biết là sương hay nắng. Căn buồng kín mít và ô cửa nhỏ là một chi tiết đầy sức ám ảnh về một nhà tù. Ở đó, Mị cũng chỉ là người tù chung thân. Căn buồng của Mị là địa ngục trần gian giam hãm, chôn vùi tuổi xuân, sức sống và những khát vọng cao cả, tốt đẹp của Mị. Mọi khổ đau bất hạnh đã khiến Mị từ một cô gái xinh tươi, đầy sức sống, yêu tự do, khát khao hạnh phúc trở thành một người đàn bà bị tước mất linh hồn, mặt buồn rười rượi. Nhựa sống trong Mị cạn kiệt, Mị sống chỉ là tồn tại, sống mà như đã chết. Ngay mở đầu tác phẩm, Tô Hoài đã viết: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường thấy một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá, trước cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, chẻ củi hay cõng nước dưới khe lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Một cô gái âm thầm, lẻ loi, sống như gắn vào những vật vô tri, vô giác. Một cô con dâu nhà thông lý quyền thế, giàu sang “nhiều nương, nhièu bạc, nhiều thuốc phiện” nhất làng nhưng lúc nào cũng “cúi mặt”, “mặt buồn rười rượi”. Hình ảnh của Mị hoàn toàn tương phản với gia cảnh nhà thống lý. Sự tương phản ấy cho thấy một số phận không bằng phẳng, một số phận nhiều bi kịch nơi miền núi cao Tây Bắc. Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi. Mị không nghĩ đến cái chết, không còn chút vùng vẫy nào để giải thoát cho số phận. Mị trở thành kẻ mất ý thức về cuộc đời mình, chẳng khác nào “một con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa”. Đằng sau hình ảnh so sánh này, ta có thể thấy được nỗi đau của một con người bị vật hóa.
>>Thân phận khổ đau, tủi cực của Mị ở Hồng Ngài có ý nghĩa tiêu biểu điển hình cho người đàn bà ở Tây Bắc ngày xưa, khi phải đem thân trừ nợ cho nhà giàu. Khi viết “Đời người đàn bà ở Hồng Ngài đi lấy chồng nhà giàu thì cả đời chỉ biết đi theo đuôi con ngựa nhà chồng”, Tô Hoài đã bộc lộ bao nỗi xót xa, cảm thương cho số kiếp những người phụ nữ trong một xã hội không coi phụ nữ là người. Cũng như Mị tất cả những người phụ nữ ấy đều bị bóc lột sức lao động; bị chà đạp, lăng nhục về nhân phẩm; bị áp chế về mặt tinh thần. Họ đều phải “vùi vào việc làm cả đêm lẫn cả ngày”. Họ bị trói, bị đánh đập. Họ bị giam cầm đến mức bị chai sạn cảm xúc, tê liệt cảm xúc. Thấp thoáng trong tác phẩm, nhà văn Tô Hoài cũng nhắc đến những thân phận phụ nữ khổ đau khác. Trước hết là hình ảnh người chị dâu của Mị. Người chị dâu này hơn Mị vài tuổi mà cái lưng đã còng rạp xuống. Chỉ cần nhà văn nói đến cái lưng còng của người chị dâu Mị là ta cũng đủ hiểu nỗi cơ cực tột cùng của người Tây Bắc ngày xưa, cả một núi khổ đau và bất hạnh đè lên số kiếp của họ. Tiếp nữa là hình ảnh người đàn bà bị trói chết trong gia đình thống lí. Cũng chẳng riêng gì Mị bị trói. Ở đời trước trong nhà thống lí đã có người phụ nữ bị chồng trói trong góc nhà cho đến chết mà không ai biết. Những chi tiết ấy đều chứng minh rằng người phụ nữ Tây Bắc ngày xưa đều bị đẩy vào kiếp sống tôi đòi, phải chịu mấy tầng áp bức của nhà giàu, của cái ma thần quyền, của tập tục cướp dâu gạt nợ và nhất là một xã hội khinh khi không coi phụ nữ là người.
LUẬN ĐIỂM 2: TUY NHIÊN VƯỢT LÊN TẤT CẢ NHỮNG ĐẮNG CAY TỦI CỰC CỦA CUỘC ĐỜI, MỊ VẪN THỂ HIỆN RÕ VẺ ĐẸP CỦA MỘT CÔ GÁI VÙNG CAO.
- Mị xinh đẹp, yêu lao động, yêu tự do, hiếu thảo. Cô có tài thổi lá. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như người ta thổi sáo. Trai làng mê Mị đi theo Mị hết núi này đến núi khác. Mị cũng từng có người yêu. Mị như bông hoa rực rỡ đầy hương sắc giữa núi rừng Tây Bắc.
- Nét đẹp đáng quý trong tâm hồn Mị là khát khao được sống tự do, không phải làm nô lệ cho nhà giàu. Mị muốn đi làm nương rẫy để trả nợ thay cho bố mẹ. Đây là khát khao đáng trân trọng, thể hiện khát vọng của một cô gái trẻ, đẹp, có tài như Mị.
- Vẻ đẹp nổi bật nhất ở Mị là sức sống mãnh liệt. Tuy nhiên khi sống trong thân phận làm dâu trừ nợ ở nhà Pá Tra, Mị chịu ba nỗi khổ: bị bóc lột sức lao động; bị lăng nhục về nhân phẩm; bị cầm tù về mặt tinh thần, nên hầu như sức sống trong cô bị tê liệt. Mặc dù vậy từ trong sâu thẳm tâm hồn Mị sức sống vẫn âm ỉ tồn tại. Sức sống đó chẳng khác nào ngọn lửa hồng bị vùi lấp bởi lớp tro than và khi gặp điều kiện thuận lợi nó lại bùng cháy dữ dội. Sức sống tiềm tàng của Mị được thể hiện qua ba phân cảnh: khi mới về làm dâu, trong đêm tình mùa xuân và trong đêm đông cắt dây trói cứu A Phủ. Đây cũng là ba phân cảnh diễn tả tinh tế tâm trạng Mị đồng thời cho thấy tài năng xây dựng nhân vật của nhà văn Tô Hoài. Khi miêu tả tâm trạng Mị, nhà văn Tô Hoài không hề đơn giản. Ông miêu tả sức sống đó theo đường gấp khúc. Có lúc sức sống trội dậy mãnh liệt, rồi lại lắng xuống, rồi lại trỗi dậy ngày càng mãnh liệt hơn.
*** Lúc mới về làm dâu.
- Trước khi làm con dâu trừ nợ ở nhà Pá Tra, Mị là một cô gái trẻ, đẹp, tài hoa, yêu lao động, có khát vọng tự do và muốn làm chủ cuộc đời mình. Nhưng chỉ vì món nợ của cha mẹ trong ngày cưới nên Mị bị Pá Tra bắt về làm con dâu trừ nợ. Nỗi uất ức thống khổ tột cùng đã khiến cho Mị “hàng tháng ròng đêm nào cô cũng khóc.” Cô còn định ăn lá ngón tự tử. Hành động có phần tiêu cực của Mị khi đặt trong hoàn cảnh nghiệt ngã mà cô phải gánh chịu cho thấy một tinh thần phản kháng, một thái độ không thỏa hiệp với số phận, với cái ác cái xấu ở nhà Pá Tra. Khát khao sống một cuộc sống xứng đáng với con người đã xui khiến Mị tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Nhưng Mị không thể chết vì lòng hiếu thảo với người cha của mình. Nếu Mị làm như vậy bố cô phải trả nợ mà bố thì già yếu quá rồi. Mị đã ném nắm lá ngón trên tay xuống đất như ném khát vọng được giải thoát cho chính mình. Cô khóc cho cuộc đời mình, khóc cho số phận. Từ đây cô không nghĩ cho mình nữa, cô can tâm sống kiếp trâu ngựa để trả thù cho bố mà thôi.
***Đêm tình mùa xuân
- Mấy năm sau bố Mị chết nhưng Mị không còn nghĩ đến cái chết nữa. Tâm hồn cô hoàn toàn giá lạnh, sống mà khác nào đã chết. Mị giống như con rùa nuôi sau xó cửa.
- Nhưng đó mới chỉ là phía bề ngoài ở Mị. Trong tận sâu thẳm tâm hồn cô, sức sống vẫn âm thầm tồn tại và chờ dịp bùng lên. Dịp đó đã đến khi Hồng Ngài vào xuân, trong một đêm tình mùa xuân vẳng lên tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha.
- Thiên nhiên mùa xuân Hồng Ngài xinh đẹp, rực rỡ với hình ảnh của cỏ gianh vàng ửng, hoa thuốc phiện nở trên các triền núi và đặc biệt là hình ảnh những chiếc váy phơi trên những mỏn đá, xòa như những con bướm khổng lồ, sặc sỡ.
- Không khí đón tết ở Hồng Ngài rất tưng bừng rộn rã. Đám trẻ con đợi tết chơi quay cười ầm ĩ trước sân nhà. Thanh niên tụ tập ở những bãi đất trống chơi ném pao, ném còn, thổi khèn, thổi sáo đi tìm người yêu.
- Ngoài đầu núi lấp ló tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Trong tác phẩm tiếng sáo trở đi trở lại nhiều lần trở thành một hình tượng nghệ thuật đặc sắc, có vai trò quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề tác phẩm. Trước hết, chi tiết tiếng sáo góp phần tạo dựng một không gian nghệ thuật mang đậm màu sắc dân tộc độc đáo ở vùng cao Tây Bắc. Tiếp nữa, chi tiết tiếng sáo còn đóng vai trò là chất xúc tác, một thứ thuốc thử tác động đến Mị khiến tâm hồn Mị hồi sinh.
- Mị ngồi bên bếp lửa lắng nghe tiếng sáo bồi hồi và nhẩm theo lời bát hát của người đang thổi. Cô lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Mị uống rượu mà như uống hận vào lòng. Cung cách uống rượu của cô đã dự báo hành động nổi loạn chống lại số phận mà lúc này cô chưa ý thức một cách rõ rệt. Cơn say đã giúp Mị quên hiện tại trở về quá khứ. Mị như đang sống với hai con người, thực tại và tâm linh. Con người của thực tại thì theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường trông ra cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Con người của tâm linh “ đột nhiên vui sướng” như những đêm tết ngày trước. Vậy là tiếng sáo hiện tại đã gợi nhắc quá khứ. Mị nhớ về con người của chính mình thời trước. Nhớ lại thời thiếu nữ ngày xưa, Mị bỗng thấy mình còn trẻ và muốn đi chơi. Mị bỗng ý thức về hiện tại và trong cô dâng lên một niềm hờn oán “Bao đôi vợ chồng lấy nhau cũng đi chơi ngày tết huống chi Mị và A Sử không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.” Nỗi oán hờn đã dâng lên thành niềm uất hận “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa.”
- Nỗi đau đớn, niềm khát khao sống và hạnh phúc đã giao hòa với nhau trong tâm hồn Mị. Khát vọng sống, hạnh phúc và tình yêu đã chiến thắng những suy tư ảm đảm tiêu cực trong Mị. Cô đã thắp sáng đĩa đèn. Trước đây Mị sống trong tăm tối, đêm tình mùa xuân này Mị dám thắp sáng cả căn phòng. Điều đó cho thấy sức sống tiềm tàng trỗi dậy mãnh liệt trong Mị. Mị không chấp nhận thế giới bóng tối trong nhà thống lí Pá Tra.
- Đồng thời cô còn ý thức về bản thân mình. Ý thức được cuộc hôn nhân của mình là cuộc hôn nhân không có tình yêu. Và Mị muốn đi chơi tìm kiếm hạnh phúc.
- Mị cũng sống lại bản năng làm đẹp của người phụ nữ mà bấy lâu sống trong khổ đau hầu như Mị đã đánh mất. Mị quấn lại tóc, với cái váy áo, chuẩn bị đi chơi.
- A Sử xuất hiện, y trói Mị bằng cả một thúng dây đay, cột tóc Mị vào cột. Ngay trong cảnh ngộ bi thảm ấy, sức sống trong Mị không hề bị dập tắt. Như một người trong mộng du, hầu như Mị không biết rằng mình đang bị trói. Trong đầu Mị vẫn dập dờn tiếng sáo. Tiếng sáo vẫn đưa Mị đi theo những cuộc chơi. Cô vùng bước đi mặc cho chân tay bị trói không cựa được. Tô Hoài đã tạo nên hai hình ảnh có tính chất đối lập tương phản: tiếng sáo du dương trầm bổng với tiếng chân ngựa đạp vào vách, bàn chân vùng bước đi với sợi dây trói thít chặt. Bàn chân vùng bước đi, âm thanh của tiếng sáo là biểu tượng của khát vọng tình yêu, hạnh phúc và tự do mà Mị muốn hướng tới. Tiếng chân ngựa đạp vào vách và sợi dây trói thít chặt là hình ảnh của hiện thực tàn nhẫn, khốc liệt đã chặn đứng khát vọng của Mị. Tiếng sáo vụt tắt, Mị chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Cô thổn thức thấy mình không bằng thân con ngựa. Sức sống trong Mị bùng lên để rồi lại bị vùi dập một cách phũ phàng.
***Đêm đông cắt dây trói cứu A Phủ và bỏ trốn.
- Sự tinh tế của ngòi bút Tô Hoài là khi miêu tả sức sống tiềm tàng ở Mị là ông không hề đơn giản hóa sức sống ấy mà miêu tả nó theo một đường gấp khúc, phù hợp với diễn biến tâm lí của một người đàn bà đã chịu nhiều đau khổ. Có lúc sức sống ấy đã trỗi dậy mãnh liệt và sau đó bị nén xuống rồi lên bừng lên.
- Sau đêm tình mà xuân, Mị lại rơi vào câm lặng. Mị sống mà như tồn tại. Người đọc tưởng rằng cô gái ấy sẽ lao vào làm việc và đợi ngày thành ma ở nhà thống li. Âý vậy mà một lần nữa tâm hồn Mị lại được hồi sinh.
- Mọi chuyện bắt đầu từ sự kiện A Phủ để hổ ăn mất một con bò nên đã bị Pá Tra trói vào cọc chờ chết. Mấy đêm đầu, Mị còn thấy dửng dưng, cô nghĩ rằng nếu A Phủ có là cái xác chết đứng đấy cũng vậy thôi. Mị dửng dưng bởi vì lúc đó mọi cảm xúc trong Mị hầu như đã bị tê liệt. Một khi Mị đã dửng dưng với chính số phận của mình thì đương nhiên cô cũng dửng dưng trước số phận của A Phủ. Tâm hồn Mị tưởng như đã hóa đá. Hơn nữa việc người bị trói đứng ở nhà thống lí là chuyện thường ngày. Nhưng khi trông thấy giọt nước mắt lấp lánh bò xuống hõm má đã xám đen của A Phủ thì Mị lập tức thoát khỏi trạng thái vô cảm. Trí nhớ bắt đầu thức dậy. Mị nhớ đến giọt nước mắt của chính mình khi bị A Sử trói. Cô liên tưởng tới người đàn bà bị trói chết trong nhà thống lí và hình dung cái chết sẽ đến với A Phủ. Trí nhớ đã tạo thành một phản ứng dây truyền nối liền ba số phận của ba con người khổ đau. Trong Mị dâng lên một nỗi thương thân, thương người cùng cảnh ngộ. Mị còn nhận thức được sâu sắc bộ mặt tàn ác của cha con thống lí. Sự miêu tả của Tô Hoài thật sinh động. Tô Hoài thật tài tình khi diễn tả tinh tế diễn biến tâm trạng Mị. Chỉ trước đó mấy giây, ai có thể nghĩ rằng Mị sẽ xúc động. Ai có thể nghĩ rằng Mị sẽ hành động khi cô chờ đợi ngày rũ xương ở nhà thống lí. Thế mà Mị đã xúc động. Mị thương A Phủ. Từ đó Mị có hành động quyết liệt, táo bạo. Cô cắt dây trói cứu A Phủ. Cắt dây trói cứu A Phủ, Mị cũng đã cứu chính cuộc đời mình. Với hành động này Mị đã phá tung những xiềng xích vô hình đã trói buộc cô vào cuộc đời nô lệ ở nhà Pá Tra.
- A Phủ quật sức vùng chạy. Mị đứng lặng trong bóng tối, trong Mị dâng lên một cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt: đi theo A Phủ hay ở lại nhà thống li. Đi theo A Phủ chưa chắc đã hạnh phúc nhưng vẫn còn được sống. Ở lại nhà thông lí, Mị chắc chắn phải thế vào chỗ A Phủ. Mị phải chết. Nhận thức được tai họa giáng xuống đầu mình nếu ở lại Hồng Ngài, khát vọng sống mãnh liệt, Mị đã vụt chạy theo A Phủ trong cơn gió lốc. Họ đã bỏ lại phía sau địa ngục trần gian và tìm đến Phiềng Sa. Ở đây họ đã thành vợ chồng. Sức sống tiềm tàng đã giúp cho Mị chiến thắng được nỗi ám ảnh của quá khứ, của thần quyền và cường quyền. Dần dà Mị cũng giác ngộ kháng chiến, cách mạng và đứng trong hàng ngũ du kích tham gia chiến đấu.
- Như vậy, nếu những phản kháng của Mị khi mới về làm dâu còn nhiều tiêu cực, sự phản kháng của Mị trong đêm tình mùa xuân dù có quyết liệt nhưng chỉ là giải phát tình thế thì sự phản kháng của Mị trong đêm đông quyết liệt, triệt để nhất.
3.KHÁI QUÁT NÂNG CAO
- Như vậy với nghệ thuật trần thuật tự nhiên, hấp dẫn, lối văn kể chuyện sinh động, gần gũi với cách kể chuyện dân gian; tình huống hấp dẫn rõ ràng; ngôn ngữ đậm chất Tây Bắc, giàu chất thơ, giàu hình ảnh; chi tiết đặc sắc, Tô Hoài đã xây dựng thành cônh nhân vật Mị.
- Nếu A Phủ được thể hiện qua vẻ bề ngoài, chủ yếu qua hành động thì Mị được phác họa chủ yêu thông qua thế giới nội tâm phong phú, phức tạp.
- Mị là một nhân vật thành công của văn xuôi kháng chiến. Hình tượng nhân vật đã được khắc họa qua một quá trình tâm lí đầy biến hóa, ngẫu nhiên, bất ngờ mà vẫn lô gic. Qua đó hiểu được sức sống tiềm tàng của người phụ nữ vùng cao Tây Bắc đã tìm thấy hạnh phúc trong cuộc đời cũ . Để khám phá và diễn tả một cách sinh động sức sống ấy, Tô Hoài đã thực sự sống với nhân vật, thực sự yêu thương và trân trọng họ.
- Qua nhân vật Mị, Tô Hoài thể hiện sâu sắc giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
KẾT BÀI
- Khẳng định lại hình tượng
- Gửi lời cảm ơn tác giả
- Bài học rút ra cho bản thân khi học xong tác phẩm: (bài học nhân thức + bài học hành động)
ĐỀ 2. PHÂN TÍCH NHÂN VẬT A PHỦ TRONG TÁC PHẨM “VỢ CHỒNG A PHỦ” (TÔ HOÀI)
MỞ BÀI
Cách 1: Đi từ vai trò của nhân vật trong truyện ngắn>> đến nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”
Cách 2: Đi từ thành tựu của văn học thời chống Pháp>> đến truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài>> đến nhân vật A Phủ
Cách 3: Đi từ đề tài Tây Bắc>> đến truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”>>đến nhân vật A Phủ
Ví dụ: Tây Bắc là vùng núi phía Tây của miền Bắc Việt Nam. Cảnh sắc thiên nhiên và con người nơi đây luôn là nguồn cảm hứng sáng tác của các văn nghệ sĩ. Tây Bắc đã trở thành là đề tài tiêu biểu trong văn chương cách mạng. Những tác phẩm tiêu biểu về đề tài Tây Bắc phải kể đến như: “Tây Tiến” (Quang Dũng), “Tiếng hát con tàu” (Chế Lan Viên), “Người lái đò Sông Đà” (Nguyễn Tuân)… Trong mảng sáng tác về Tây Bắc không thể không nhắc đến những sáng tác của nhà văn Tô Hoài. Với Tô Hoài, Tây Bắc là miền nhớ, miền kí ức, miền kỉ niệm: “Đất nước và người miền Tây để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, không thể bao giờ quên…Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người, thành việc trong tâm trí tôi.” Sự am tường về cuộc sống của người lao động miền Tây, mối thiện cảm sâu sắc với người nông dân vùng cao đã giúp Tô Hoài gặt hái được những thành tựu rực rỡ về đề tài miền núi. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập truyện “Tuyện Tây Bắc” nói chung có thể coi là một cách trả nợ những ân tình đối với Tây Bắc của Tô Hoài. Qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” nhà văn không chỉ phản ánh một cách chân thực, sinh động hiện thực cuộc sống đau khổ, tăm tối của người dân vùng cao dưới ách bọn chúa đất mà tác giả còn cho thấy sự đổi đời của họ khi họ đi theo cách mạng và kháng chiến. Tư tưởng chủ đề đó của tác phẩm được nhà văn thể hiện sâu sắc và ấn tượng qua nhân vật A Phủ.
THÂN BÀI
1.GIỚI THIỆU TÁC GIẢ - TÁC PHẨM
Tác giả + tác phẩm (hoàn cảnh sáng tác +giá trị nội dung)
- Tô Hoài (1920 – 2014) tên thật là Nguyễn Sen, quê ở ngoại thành Hà Nội. Ông là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo mãnh liệt của nền văn học Việt Nam. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, tác giả là chủ gần 200 đầu sách. Tô Hoài sáng tác nhiều và thành công trên nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, tự truyện…Ông có sở trưởng về miêu tả thiên nhiên và phong tục tập quán ở các vùng miền. Tô Hoài được mệnh danh là nhà văn của thế giới loài vật, nhà văn của những người ven thành. Đặc biệt khi ra mắt độc giả tập “Truyên Tây Bắc”, Tô Hoài là nhà văn của vùng núi cao Tây Bắc.
- Truyện ngắn “Vợ chồng A phủ” là áng văn xuôi xuất sắc nhất của Tô Hoài trong tập “Truyện Tây Bắc”. Tập truyện được nhà văn sáng tác năm 1953. Tác phẩm là kết quả những chuyến đi thực tế của Tô Hoài lên vùng rẻo cao Tây Bắc từ năm 1952, trong vòng tám tháng. Tập truyện này đã được trao giải nhất giải thưởng hội văn nghệ Việt Nam năm 1954 – 1955. Bằng việc kể về hai đoạn đường đời của Mị và A Phủ: đoạn đường đời đẫm máu và nước mắt ở Hồng Ngài, đoạn đời ở Phiềng Sa khi theo cách mạng và kháng chiến, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” đã phác họa một bức tranh chân thực về cuộc sống tăm tối tủi nhục của người dân Tây Bắc dưới ách bọn chúa đất vùng cao. Đồng thời, tác phẩm chỉ ra con đường đi theo cách mạng, đi theo kháng chiến là con đường giải phóng duy nhất của người dân Tây Bắc. Cũng qua tác phẩm, Tô Hoài đã bày tỏ niềm cảm thương chân thành, sâu sắc đối với những người nông dân miền núi; đứng về phía họ lên án tố cáo những thế lực bạo tàn đã đầy đọa những người lao động đến cuộc sống bi đát. Truyện ngắn còn phát hiện, diễn tả và ca ngợi vẻ đẹp của người lao động vùng cao, đặc biệt là sức sống tiềm tàng của họ.
2.PHÂN TÍCH NHÂN VẬT A PHỦ
- GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ NHÂN VẬT
(khái quát về vị trí, vai trò của nhân vật bằng đoạn văn 5 >7 dòng)
+ A Phủ là nhân vật chính của tác phẩm. Cùng với nhân vật Mị, nhân vật A Phủ cũng tham gia vào những sự kiến biến cố lớn của truyện ngắn.
+ Mị và A Phủ đều thuộc kiểu nhân vật số phận hơn là nhân vật tính cách. Cả hai đều giống nhau ở thân phận cay đắng tủi cực nhưng ở mỗi nhân vật đều có nét riêng khiến cho người ta phải nhớ mãi. Nhân vật Mị chủ yếu được khắc họa qua diễn biến tâm trạng thì A Phủ lại chủ yếu được thể hiện qua hành động, Điều này phù hợp với tính cách của một chàng trai miền núi có phần đơn giản bộc trực, ưa hành động hơn là nói năng dài dòng, không quen đắm chìm vào những suy tư nội tâm phức tạp. Nếu Mị mang những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ vùng cao (xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo) thì A Phủ có thể xem là một hình mẫu lí tưởng của một chàng trai Tây Bắc cường tráng, mạnh mẽ, lao động giỏi, giàu tinh thần nghĩa hiệp.
+Qua nhân vật A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã thể hiện sâu sắc tư tưởng, chủ đề tác phẩm
- PHÂN TÍCH CỤ THỂ
LUẬN ĐIỂM 1: Trước hết, A Phủ là chàng trai miền núi chịu nhiều bất hạnh, thua thiệt. Số phận bất hạnh, thua thiệt đó được thể hiện cả trước và sau khi A Phủ đi ở trừ nợ ở nhà Pá Tra.
- Ngày nhỏ, A Phủ cũng chịu nhiều thua thiệt. Đầu tiên, A Phủ là nạn nhân của dịch bệnh. Lên mười tuổi sau một dịch đậu mùa, bố mẹ, anh em của A Phủ chết. A Phủ trở thành đứa trẻ mồ côi. Tiếp nữa, A Phủ là nạn nhân của nghèo đói. Người dân ở khu A Phủ đã bán A Phủ xuống cánh đồng thấp của người Thái. A Phủ bỏ trốn lên vùng núi cao, lưu lạc đến Hồng Ngài. Anh đi làm thuê làm mướn mưu sinh. Vì đánh con nhà quan, A Phủ bị bắt, đánh và phạt vạ. Không có tiền A Phủ phải đi ở trừ nợ tại nhà Pá Tra.
- Sống ở nhà Pá Tra, A Phủ cũng chịu ba nỗi khổ: bị bóc lột sức lao động, bị lăng nhục nhâm phẩm và bị cầm tù về tinh thần.
+A Phủ bị bóc lột sức lao động. Anh đã phải làm việc quần quật quanh năm và toàn là những công việc khổ sai nặng nhọc, nguy hiểm: đốt rừng, làm nương, chăn bò, bẫy hổ, săn bò tót, chăn ngựa… Có khi anh phải ở ngoài rừng hàng tháng ròng.
+Không những thế A Phủ còn bị cầm tù về tinh thần. Đắng cay tủi cực là thế nhưng A Phủ lại không nghĩ đến chuyện bỏ trốn. Bởi khi cho A Phủ vay tiền, Pá Tra đã cúng trình mà để ma về nhận mặt con nợ. Kể từ lúc sờ tay lên mặt tiền ở nhà thống lí, A Phủ đã trở thành tù nhân của thần quyền.(Vì lúc đó Pá Tra đã đốt hương lầm rầm khấn ma về nhận mặt con nợ).
+ Giống như Mị, A Phủ cũng bị lăng nhục về nhân phẩm. Mặc dù yêu sự công bằng, bảo vệ lẽ phải mà A Phủ bị người nhà Pá Tra bắt trói, đánh đập, phạt vạ. Anh phải lê đầu gối xưng như mặt hổ phù đi giết lợn để thiết đãi những người vừa sự kiện mình, đánh đập mình, phạt vạ mình. Tai họa giáng xuống A Phủ vào lúc anh không ngờ nhất. Có lần vì mải mê bẫy nhím, A Phủ đã để hổ vồ mất một con bò. Anh đã bị Pá Tra trói vào cột chờ chết. A Phủ xin Pá Tra đi bắt hổ đền tội nhưng Pá Tra không cho. Như vậy nếu như cuộc đời cô Mị không bằng con trâu, con ngựa nhà thống lí thì sinh mệnh của A Phủ xem ra không đáng giá bằng một con bò nhà lão.
>>Thân phận của A Phủ ở Hồng Ngài, một lần nữa đã chứng tỏ: ở Tây Bắc ngày xưa tất cả mọi người, từ trẻ đến già, từ đàn ông đến đàn bà đều là nạn nhân của bọn thống trị.
LUẬN ĐIỂM 2 TUY NHIÊN VƯỢT LÊN TẤT CẢ NHỮNG ĐẮNG CAY TỦI CỰC CỦA CUỘC ĐỜI, A PHỦ VẪN THỂ HIỆN RÕ VẺ ĐẸP CỦA MỘT CHÀNG TRAI MIỀN NÚI (cường tráng, mạnh mẽ, lao động giỏi, giàu tinh thần nghĩa hiệp)
- Lớn lên trong khổ đau và bất hạnh, A Phủ đã hội tụ những phẩm chất tốt đẹp của người dân Tây Bắc. Bởi vậy khi tiếp xúc với nhân vật, ta có cảm tưởng như được gặp lại những anh mồ côi, những chàng khó trong các câu chuyện cổ tích của người miền núi.
- A Phủ là một người rất có cá tính. Cá tính ấy được bộc lộ ngay từ thời thơ ấu. Cả nhà bị chết trong một nạn dịch, A Phủ đã bị bán xuống cánh đồng thấp nhưng cậu bé ngày ấy đã không cam chịu. A Phủ đã bỏ trốn, lang thang trên các triền núi cao rồi đến Hồng Ngài. Hành động bỏ trốn của A Phủ là dấu hiệu của cá tính mạnh mẽ, ngoan cường, yêu tự do.
- Cuộc sống lao động tự lập đã tạo nên ở A Phủ một thể chất tráng kiện và một khả năng lao động tuyệt vời. Anh khỏe mạnh, chạy nhanh như ngựa. Anh lao động giỏi, biết đúc cuốc, đục lưỡi cày, săn bò tót rất bạo. A Phủ đã trở thành niềm ao ước của các cô gái. Họ nghĩ “có được A Phủ cũng bằng có được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy chốc mà giàu”. Nhưng người ta chỉ ước đùa thế thôi, chứ chẳng có ai dám lấy A Phủ vì anh nghèo khổ, lại mồ côi, không có bạc, có ruộng. Do đó hạnh phúc chẳng bao giờ mỉm cười với A Phủ nếu không có cách mạng, kháng chiến.
- Cho dẫu thế thì trong trái tim thanh xuân của A Phủ, ước mơ về tình yêu và hành phúc không hề bị dập tắt. Mùa xuân đến cho dù không có quần áo đẹp, chỉ có một cái vòng vía lằn trên cổ, A Phủ vẫn cùng chúng bạn đem khèn, đem sáo, quả pao đi tìm người yêu.
-Trong đêm tình mùa xuân năm đó, lòng cam đảm, tinh thần nghĩa hiệp của A Phủ được bộc lộ. Anh đã thẳng tay trừng phạt A Sử khi hắn quấy phá cuộc vui xuân của bạn bè mình. Ngòi bút của Tô Hoài đã thực sự hân hoan khi miêu tả hành động dũng cảm của chàng trai này. Anh đã lăng con quay bằng gỗ ngát vào giữa mặt A Sử và xông tới túm lấy cái vòng cổ bạc có rủ xuống những tua chỉ xanh đỏ, kéo dập đầu hắn xuống , xé vai áo nó ra mà đánh. Nhìn chiếc vòng bạc xung quanh quấn những tu chỉ xanh đỏ, A Phủ biết A Sử là con quan. Nhưng A Phủ vẫn thẳng tay trừng trị A Sử. Trận đánh vô cùng hào hứng này đã cho thấy lòng dũng cảm và tinh thần nghĩa hiệp, yêu lẽ phải, yêu sự công bằng của A Phủ.
- Hành động dũng cảm của A Phủ đã đẩy anh đến thảm họa: anh bị bắt, bị tra tấn dã man, bị làng phạt vạ một trăm đồng bạc trắng. Pá Tra đã tuyên án: “Mày đánh con quan làng, đáng lẽ ra làng phải xử mày tội chết, nhưng làng đã thay cho mày sống và nộp vạ… Mày không có một trăm bạc trắng thì tao cho mày vay để mày ở đợ. Bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về. Chưa có thì tao bắt mày làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế.” Thế là từ đây cuộc đời của A Phủ đã chìm trong đắng cay tủi cực của kiếp nông nô: hết đốt rừng làm nương, lại săn bò tót. Có khi anh phải ở ngoài rừng hàng tháng ròng. Người ta nghĩ rằng đây là cơ hội tốt để A Phủ đi tìm tự do cho mình. Nhưng anh đã không làm thế bởi cái ma thần quyền của nhà thống lí đã xiềng anh vào kiếp tôi tớ cho nhà giàu.
- Bị bóc lột sức lao động, bị lăng nhục nhân phẩm, bị cầm tù về tinh thần nhưng trong sâu thẳm tâm hồn A Phủ niềm khát khao tự do vẫn rất mãnh liệt. Một lần do mải mê bẫy nhím, A Phủ đã để hổ ăn mất một con bò. Anh đã bị Pá Tra bắt kiếm cọc và dây trói, tự tay anh đóng cọc xuống đất để hắn trói anh vào đó. Lão đã phớt lờ ý kiến của A Phủ khi anh muốn đi lùng bắt hổ. Pá Tra đã tuyên bố: “ Tao trói mày ở chỗ kia. Bao giờ chúng nó bắt được hổ về thì tha cho mày khỏi tội chết. Nếu không được hổ thì tao cho mày đứng chết ở đây.” Được Mị cắt dây trói, A Phủ quật sức vùng chạy bỏ lại sau lưng địa ngục trần gian trong nhà thống lí.
- Ngòi bút của Tô Hoài thật sự tinh tế khi phát hiện ra sự thống nhất giữa hai mặt tính cách đối lập ở A Phủ. Dường như trong con người của A Phủ song song tồn tại hai nét tính cách tương phản: một đằng là sự ngoan cường mạnh mẽ; một đằng là sự nhẫn nhục, cam chịu. A Phủ thật sự cường tráng và can đảm khi bỏ trốn khỏi cánh đồng thấp và lang thang trên núi cao; khi đánh con quan thống lí; khi day đứt hai vòng dây trói. Nhưng A Phủ cũng nhẫn nhục, cam chịu khi quì chịu tội ở xó nhà, bị đánh chỉ im như cái tượng đá rồi sau đó tập tễnh lê hai đầu gối sưng bạnh như mặt hổ phù, cầm dao mổ lợn để thiết đãi những kẻ vừa tra tấn mình hoặc ngoan ngoãn phục tùng mệnh lệnh của Pá Tra đi kiếm cọc và dây mây tự tay đóng cọc xuống đất để Pá Tra trói anh vào đó. Hai tính cách này vừa xung đột vừa thống nhất với nhau tạo nên sự phát triển nội tại của hình tượng A Phủ.
- Sau này chính A Phủ ngoan cường, mạnh mẽ, quyết đoán đã chiến thắng sự nô lệ trong anh để anh có thể quật sức vùng chạy, tìm về khu du kích Phiềng Sa để xây dựng cuộc sống mới, giác ngộ cách mạng và trở thành đội trưởng đội du kích.
3.KHÁI QUÁT NÂNG CAO
- Như vậy với nghệ thuật trần thuật tự nhiên, hấp dẫn, lối văn kể chuyện sinh động, gần gũi với cách kể chuyện dân gian; tình huống hấp dẫn rõ ràng; ngôn ngữ đậm chất Tây Bắc, giàu chất thơ, giàu hình ảnh; chi tiết đặc sắc, Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật A Phủ.
- Nếu Mị được phác họa chủ yêu thông qua thế giới nội tâm phong phú, phức tạp thì A Phủ được thể hiện qua vẻ bề ngoài, chủ yếu qua hành động.
- A Phủ là một trong hai nhân vật chính của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Qua nhân vật này, Tô Hoài đã phác họa một bức chân dung chân thực về một con người ở rừng núi Tây Bắc đã vươn lên từ trong máu và nước mắt trên cơ sở giác ngộ lí tưởng cách mạng và kháng chiến để trở thành một con người tự do
- Qua nhân vật A Phủ, Tô Hoài đồng cảm sâu sắc trước những bất hạnh của con người Tây Bắc xưa. Đồng thời nhà văn trân trọng vẻ đẹp của họ. Gía trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm cũng được thể hiện qua nhân vật A Phủ.
KẾT BÀI
-Khẳng định lại hình tượng
-Gửi lời cảm ơn tác giả
-Bài học rút ra cho bản thân khi học xong tác phẩm: (bài học nhân thức + bài học hành động)
ĐỀ 3. NHÂN VẬT THỐNG LÍ PÁ TRA, A SỬ
MỞ BÀI
Cách 1: Đi từ thành tựu của văn học thời chống Pháp>> đến truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài>> đến thống lí Pá Tra, A Sử
Cách 2: Đi từ đề tài Tây Bắc>> đến truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”>>đến nhân vật thống lí Pá Tra, A Sử.
THÂN BÀI
1.GIỚI THIỆU TÁC GIẢ - TÁC PHẨM
Tác giả + tác phẩm (hoàn cảnh sáng tác +giá trị nội dung)
- Tô Hoài (1920 – 2014) tên thật là Nguyễn Sen, quê ở ngoại thành Hà Nội. Ông là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo mãnh liệt của nền văn học Việt Nam. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, t?
Khai giảng
@ Học văn Thi văn
Khai giảng vào tất cả các ngày trong tuần
Khung giờ học:
G [8h-11h]
H [13h-14h30]
I [15h-18h]
K [18h30-21h30]
Gọi 0982.767.745
để tìm hiểu thêm
Cấu trúc lớp
Lớp tập trung:
Sỹ số: 5 - 15 bạn
Lớp kèm riêng:
Sỹ số: 1 - 4 bạn
Học phí
Lớp tập trung *:
100.000 đ/ca
Lớp kèm riêng *:
300.000 đ/ca
Học bổng
Học sinh đạt học lực giỏi được giảm giá 10% cho kì học tiếp theo
Địa điểm
@ Trụ sở
Cs 1 :Số 48A - Lý Thường Kiệt - HN
Cs 2 :Số 91 -Dương Quảng Hàm - HN
Áp dụng cho
- Tất cả các lớp